Ngày xưa, có một vị vua sai một viên quan đi dò la khắp nơi tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, ở đâu cũng đưa ra những câu đố oái oăm để hấp dẫn mọi người, nhưng mặc dù đã tốn nhiều công sức mà vẫn chưa thấy ai thật sự xuất sắc. Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng, bỗng thấy bên vệ đường có hai cha con đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, còn con đập đất. Ông bèn dừng ngựa lại hỏi:
– Này ông lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi lại viên quan:
– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe câu hỏi lại như vậy thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Ông thầm nghĩ bụng rằng nhân tài ở đây rồi, không cần phải tìm đâu xa nữa. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua. Nghe nói, vua rất mừng. Nhưng để biết chắc chắn hơn nữa, vua bèn sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp và vài ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau đem nộp đủ; nếu không thì cả làng phải chịu tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua, ai nấy đều bàng hoàng và lo lắng, không thể hiểu chuyện gì đang diễn ra. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, nhưng vẫn không nghĩ ra được cách nào giải quyết. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc này đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng rằng ngả thịt hai con trâu và nấu hai thúng gạo nếp để mọi người ăn mừng cho đã miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta đi kinh lo liệu việc này.
– Đã ăn thịt thì còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà mất đầu đó, con ạ! Nhưng đứa con quả quyết:
– Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu để đánh chén. Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhân lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính đưa vào và phán hỏi:
– “Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?”
– “Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu sinh thêm em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con giúp con.”
Nghe vậy, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:
– Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực để đẻ thành chín con nộp cho đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
– Ta thử đấy thôi mà? Thế làng các mày không biết đem trâu ấy ra ngả thịt mà ăn với nhau à?
– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần cho rằng thằng bé thật thông minh lỗi lạc, nhưng vua vẫn muốn thử đến cùng. Hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ và lệnh chỉ bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
– Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn. Lập tức, vua cho gọi cả cha con vào ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nhà vua. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ đã sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc. Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và phải thừa nhận sự lép vế của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu… nhưng tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu các ông trạng, các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay.
Cuối cùng, triều đình đành tìm cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán để có thời gian đi hỏi ý kiến em bé thông minh ngày nọ. Một viên quan mang dụ chỉ của vua đến nhà em bé vào lúc em còn đùa nghịch ở sau nhà. Nghe quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả ngoại quốc, em bé không đáp, chỉ hát lên một câu:
– Tang tính tang! Tính tình tang!
– Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng.
– Bên thời lấy giấy mà bưng.
– Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang.
Tang tì tì tì… Rồi bảo:
– Không cần tôi phải về triều làm gì. Cứ theo cách đó là xâu được ngay!
Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói như mở cờ trong bụng. Quả nhiên, con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước ánh mắt kính phục của sứ giả nước láng giềng. Sau đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên, và vua sai xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở để tiện hỏi han.